Thứ Sáu, 10 tháng 2, 2012

M


Mai Hoa Thôn Cam Lộ Tự (chữ viết) Tên chữ của chùa Cam Lộ, Xóm Hạ.

Mai Nghiêm
(tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Pháp, quốc tịch Pháp, sinh năm 1984, tập sự xuất gia năm 2002 (18 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 26 tháng 5 năm 2002 (18 tuổi) tại chùa Từ Nghiêm – Làng Mai, pháp danh Tâm Hỷ Hướng, pháp tự Chân Mai Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Xoan. Thọ giới Thức Xoa Ma Na năm 2004 trong đại giới đàn Đoàn Tụ. Thọ giới lớn ngày 14 tháng 1 năm 2006 trong đại giới đàn Cổ Pháp. Là đệ tử thứ 160 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Mai Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Sư cô có năng khiếu về âm nhạc và đã phổ nhạc cho bài tụng Quy Nguyện bằng tiếng Pháp (Chant du Refuge).
Mai Thôn Đạo Tràng (chữ viết) Tên chữ của Làng Mai. (xem Làng Mai).
Mãn Nghiêm (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh năm 1962, tập sự xuất gia năm 2005 (43 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 7 tháng 8 năm 2005 (43 tuổi) tại Chùa Pháp Vân – Làng Mai, pháp danh Tâm Nhuận Thiện, pháp tự Chân Mãn Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Hướng Dương. Thọ giới Thức Xoa Ma Na năm 2008 tại Làng Mai trong đại giới đàn Thanh Lương Địa. Là đệ tử thứ 241 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Mãn Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. 
 
Mặc Nghiêm (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh năm 1983, tập sự xuất gia năm 2004 (21 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 1 tháng 2 năm 2005 (22 tuổi) tại chùa Hoằng Pháp, Việt Nam, pháp danh Tâm Nguyên Hiếu, pháp tự Chân Mặc Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Vú Sữa. Thọ giới Thức Xoa Ma Na năm 2007 trong đại giới đàn Phương Bối. Thọ giới lớn ngày 5 tháng 1 năm 2008 tại tu viện Bát Nhã trong đại giới đàn Thanh Lương Địa. Là đệ tử thứ 226 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Mặc Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Mắt tăng (thuật ngữ) Con mắt của tăng thân, của đoàn thể tu học. Một danh từ được Làng Mai chế tác. Trước đó chỉ có ngũ nhãn là mắt thịt (nhục nhãn), mắt trời (thiên nhãn), mắt tuệ (tuệ nhãn), mắt pháp (pháp nhãn), và mắt Bụt (Phật nhãn). Mắt tăng (tăng nhãn – có thể dịch ra tiếng Phạn là sangha-caksus) là cái thấy của tăng thân, bao giờ cũng sáng suốt hơn là cái thấy của một cá nhân. Ở Làng Mai, hành giả được tăng thân soi sáng và dìu dắt trên con đường thực tập. Hành động soi sáng và dìu dắt này được căn cứ trên cái thấy của tăng thân về mình. Cái thấy ấy là tăng nhãn. Hành giả nên tập sử dụng tăng nhãn để nhìn tự thân và nhìn sự việc. 
 
Mắt thương (thuật ngữ) Con mắt từ bi, dịch chữ từ nhãn (“từ nhãn thị chúng sinh,” lấy con mắt thương nhìn mọi loài) trong phẩm Phổ Môn, kinh Pháp Hoa. Nhìn người khác bằng con mắt từ bi, hành giả sẽ không bao giờ đau khổ và người được nhìn cũng cảm thấy được chấp nhận và thương yêu. Thực tập bài kệ Thức dậy sẽ giúp nuôi dưỡng tinh thần ấy mỗi ngày:  
Thức dậy miệng mỉm cười. 
Hăm bốn giờ tinh khôi. 
Xin nguyện sống trọn vẹn. 
Mắt thương nhìn cuộc đời. 
 
Mẫn Nghiêm (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt-Hoa, quốc tịch Mỹ, sinh năm 1986, tập sự xuất gia năm 1999 (12 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 04 tháng 12 năm 1999 (13 tuổi) tại chùa Từ Nghiêm – Làng Mai, pháp danh Đức Luân, pháp tự Chân Mẫn Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Anh Đào. Thọ giới Thức Xoa Ma Na năm 2004 trong đại giới đàn Lâm Tế. Thọ giới lớn ngày 14 tháng 01 năm 2006 trong đại giới đàn Cổ Pháp. Nhận truyền đăng năm 2008 trong đại giới đàn Thanh Lương Địa với bài kệ truyền đăng:  
Đóa sen linh Mẫn ngát hương thiền. 
Trang điểm trần gian cõi tịnh Nghiêm. 
Tám gió kêu gào tâm chẳng động. 
Trái tim hồng ngọc chiếu tây thiên. 
 Là đệ tử thứ 101 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Mẫn Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Sư cô là một trong những đệ tử trẻ tuổi của Sư Ông Làng Mai, được Sư Ông Làng Mai đặt danh hiệu Baby Nun và còn được biết tới với biệt danh Sư bé 101.
Mật Nghiêm (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Canada, sinh năm 1985, tập sự xuất gia năm 2001 (16 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 28 tháng 6 năm 2001 (16 tuổi) tại chùa Từ Nghiêm – Làng Mai, pháp danh Tâm Hiền Thiện, pháp tự Chân Mật Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Dâu Tây. Thọ giới Thức Xoa Ma Na năm 2004 trong đại giới đàn Lâm Tế. Thọ giới lớn ngày 10 tháng 11 năm 2004 trong đại giới đàn Đoàn Tụ. Là đệ tử thứ 127 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Mật Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán. Là một trong những đệ tử trẻ tuổi của Sư Ông Làng Mai được Sư Ông Làng Mai đặt danh hiệu Baby Nun
 
Mây Đầu Núi (cơ sở) Một xóm dành cho các sư cô thuộc tu viện Bát Nhã.

Mây Hồng (cơ sở) Một cư xá dành cho cư sĩ nam tại tu viện Bích Nham.
Mây Thong Dong (điện đường, cơ sở)
1. Một thiền đường thuộc chùa Từ Nghiêm, Xóm Mới.
 2. Một cư xá dành cho các sư cô ở Xóm Mới.
Mây Tím (cơ sở) Một cư xá thuộc Xóm Hạ.
MCorp Global (tên gọi) Tên của một công ty do tiến sĩ Bhupendra Kumar Modi làm giám đốc. Công ty này đã quyết định bỏ ra 120 triệu Mỹ kim để thực hiện phim Buddha căn cứ vào tác phẩm Đường Xưa Mây Trắng của Thầy Làng Mai.
Michel Shane (tên gọi) Tên nhà sản xuất phim tại Hollywood có phận sự thực hiện cuốn phim Buddha dựa trên tác phẩm Đường Xưa Mây Trắng của Thầy Làng Mai. Cuốn phim được tài trợ bởi công ty M Corp Global do tiến sĩ Bhupendra Kumar Modi làm giám đốc.
Mindfulness Bell (tạp chí) Tờ tạp chí về nghệ thuật sống chánh niệm theo truyền thống Làng Mai. Sư cô Chân Đức là cố vấn biên tập. Cô Janelle Combelic là chủ biên, và một ban cố vấn gồm một số các vị giáo thọ xuất sĩ và cư sĩ Làng Mai. Địa chỉ trang nhà: www.mindfulnessbell.org
Mindful Movements
(sách) Một cuốn sách nguyên bản tiếng Anh giới thiệu về Mười động tác chánh niệm, có hình minh hoạ và kèm theo DVD. Nhà xuất bản Parallax Press ấn hành năm 2008.
Minh Cảnh (tên gọi) Hòa thượng Minh Cảnh, trú trì tu viện Huệ Quang, Tp HCM, chủ biên bộ từ điển Phật Học Huệ Quang. Hòa thượng đã tới viếng thăm Làng Mai, chia sẻ kinh nghiệm tu học cho chúng xuất gia của Làng Mai trong đại giới đàn Mùa Sen Mới.
Minh Châu (tên gọi) Một vị xuất gia nữ tu học theo pháp môn Làng Mai, được Thầy Làng Mai đặt pháp tự là Chân Vân Nghiêm. Người Việt, xuất gia năm 1991 tại Việt Nam. Đến Làng Mai năm 2004. Sư cô Minh Châu thuộc thế hệ thứ 47 của tông Lâm Tế. 

Sc Minh Chí
Minh Chí (tên gọi) Một vị xuất gia nữ tu học theo pháp môn Làng Mai. Nhận truyền đăng năm 2012 với bài kệ truyền dăng:
Minh châu trong vạt áo nâu sồng
Chí nguyện từ xưa vẫn sáng trong
Đường sáng tăng thân cùng cất bước
Xưa nay thanh khí vẫn tương tầm.

 






Minh Đức (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nam, được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 1996 trong đại giới đàn Nến Ngọc với bài kệ truyền đăng như sau:  
Minh nguyệt sơ đăng truyền pháp nhũ. 
Đức sơn bất động phá trầm luân. 
Thụy khởi thanh thiên vân tận khứ. 
Đương chiêm tuệ nhật nhất phương hồng. 
(Trăng sáng vừa lên cho sữa pháp. 
Núi cao ngồi vững phá tâm trần. 
Thức dậy trời xanh mây quét sạch. 
Hồng hào tuệ nhật chiếu phương Đông.)
Minh Hương (tên gọi) Một vị xuất gia nữ tu học theo pháp môn Làng Mai, được Thầy Làng Mai đặt pháp tự là Chân Thạch Nghiêm. Người Việt Nam, xuất gia năm 1999 tại Việt Nam, Thọ giới lớn ngày 9 tháng 2 năm 2004 trong đại giới đàn Lâm Tế. Tới Làng Mai năm 2003. Sư cô Minh Hương thuộc thế hệ thứ 47 của tông Lâm Tế. 
 
thầy Minh Hy
Minh Hy (tên gọi) Một vị xuất gia nam tu học theo pháp môn Làng Mai. Người Việt Nam, xuất gia năm 2001 tại Việt Nam. Thọ giới lớn ngày 15/5/2005. Đến Làng Mai năm 2009. Nhận Truyền đăng năm 2011 tại Làng Mai năm 2011 trong đại giới đàn Lắng Nghe:
Tam minh bảo vật hy cầu
Nghe trong hơi thở lắng sâu tuyệt vời
Bước chân an trú thảnh thơi
Thấy trong giây phút rạng ngời pháp thân.
Thầy Minh Hy thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.









thầy Minh Mẫn
Minh Mẫn (tên gọi) Một vị giáo thọ xuất gia nam tu học theo pháp môn Làng Mai. Người Việt Nam, xuất gia năm 1995 tại Việt Nam. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2006 trong đại giới đàn Cổ Pháp với bài kệ truyền đăng như sau: 
 Không trung vầng nhật chiếu quang Minh
Mẫn tiệp tâm khai chuyển khí tình. 
Xuất thế công phu dòng thật quán. 
Chân thừa pháp lực độ quần sinh.





 
Minh Nghiêm (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh năm 1978, tập sự xuất gia năm 2006 (28 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 3 tháng 3 năm 2007 (29 tuổi) tại Tu viện Bát Nhã, pháp danh Tâm Niệm Phương, pháp tự Chân Minh Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Trầm Hương. Thọ giới Thức xoa ma na năm 2009 tại chùa Từ Hiếu trong đại giới đàn Mùa Sen Mới. Là đệ tử thứ 406 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Minh Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.
Minh Phương (tên gọi) Một vị xuất gia nữ tu học theo pháp môn Làng Mai, được Thầy Làng Mai đặt pháp tự là Chân Thủy Nghiêm. Người Việt Nam, sinh năm 1983, Thọ giới lớn ngày 10 tháng 11 năm 2004 trong đại giới đàn Đoàn Tụ. Tới Làng Mai năm 2003. Sư cô Minh Phương thuộc thế hệ thứ 47 của tông Lâm Tế. 

Minh San  (tên gọi) Một vị xuất gia nam tu học theo pháp môn Làng Mai, được Thầy Làng Mai đặt pháp tự là Chân Pháp Tuyền. Người Việt Nam, xuất gia năm 1997, thọ sadi năm 1999, Thọ giới lớn năm 2002 tại Việt Nam. Nhận truyền Đăng năm 2011 trong đại giới đàn với bài kệ:
Đã lời thệ hải minh san,
Nắng mưa bao quản, cơ hàn sá chi
Nước kia dù tới dù đi
Triền xưa xanh tốt, non thì cứ vui
 
 


Minh Tánh (tên gọi) 1. Thượng tọa Thích Minh Tánh. Một vị giáo thọ xuất gia nam, trụ trì chùa Thiên Đức, TPHCM. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 1996 trong đại giới đàn Nến Ngọc với bài kệ truyền đăng như sau:  
Minh thấy vô minh nở nụ cười. 
Tánh soi vô tánh sạch trần ai. 
Trượng phu một quyết lên đường lớn. 
Gươm báu trao truyền hãy vững tay. 
2. Ni sư Chân Minh Tánh. Một vị giáo thọ xuất gia nữ. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2004 trong đại giới đàn Lâm Tế với bài kệ truyền đăng như sau: 
 Minh tâm kiến tánh quyết lên đường. 
Tám vạn trần lao nguyện thả buông. 
Cơ nghiệp tổ tiên gây dựng lại. 
Xuân về đâu chẳng một mùa xuân. 
 
thầy Minh Tuấn
Minh Tuấn (tên gọi) Thượng tọa Minh Tuấn. Một vị giáo thọ xuất gia nam tu học theo pháp môn Làng Mai. Người Việt Nam, sinh năm 1951, xuất gia tại Việt Nam. Được Thầy Làng Mai truyền đăng năm 2006 trong đại giới đàn Cổ Pháp với bài kệ truyền đăng:  
Thông Minh Tuấn tú bậc anh tài. 
Nương thuyền Tăng bảo vượt trần ai. 
Sương thu cành huệ xòe hoa trắng. 
Một hướng ngàn năm vững bảo đài. 
Đến Làng Mai từ năm 2001. Thượng tọa Minh Tuấn thuộc thế hệ thứ 42 tông Lâm Tế chánh tông Chúc Thánh Quảng Nam.
Mì gói Giáng Kiều (thuật ngữ) Câu chuyện Tú Uyên và Giáng Kiều trong Bích Câu Kỳ Ngộ của Đặng Trần Côn được Thầy Làng Mai hiện đại hóa để nói về nghệ thuật tái lập truyền thông. Tú Uyên thông minh, đẹp trai, nhưng không giữ năm giới, không có khả năng truyền thông. Nhờ thực tập đốt hương Giới, hương Định và hương Tuệ mà được đoàn tụ lại với Giáng Kiều. (Trích bài Pháp thoại Tìm Lại Giáng Kiều, sách Leo Đồi Thế Kỷ, Lá Bối xuất bản, từ trang 74 đến trang 89).
Moon Bamboo (sách) Tập truyện ngắn tiếng Anh dịch từ nguyên tác tiếng Việt các chuyện Tố, Hồng, Bưởi và Thiều do nhà Parallax xuất bản năm 1989 tại Hoa Kỳ. Được dịch và xuất bản ở nhiều nước trên thế giới.
Mỗi bước chân đi vào tịnh độ (thuật ngữ) Mỗi bước chân của hành giả khi thực tập thiền đi đều đưa hành giả vào tịnh độ. Khi tâm hành giả có năng lượng của niệm và định, hành giả thực sự có mặt trong giây phút hiện tại, không bị quá khứ và tương lai lôi kéo, và hành giả tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống ngay trong giây phút hiện tại, những mầu nhiệm của cõi Tịnh Độ được nói đến trong kinh A Di Đà bỗng nhiên có mặt và vì vậy hành giả tiếp xúc được với tịnh độ trong lúc thực tập đi thiền. Tịnh độ không phải ở phương Tây hay ở tương lai, mà là tịnh độ bây giờ và ở đây. Đó gọi là hiện pháp tịnh độ, hay tịnh độ hiện tiền. Đi đâu hành giả cũng tiếp xúc với tịnh độ, đi đâu hành giả cũng mang tịnh độ theo, vì vậy tịnh độ còn được gọi là tịnh độ cầm tay (tiếng Anh là the portable pure land). Nắm tay Bụt để đi trong tịnh độ mỗi ngày, đó là phép thực tập thiền đi, có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu.
Một Bó Hoa Đồng (sách) Một tập truyện ngắn nhiều tác giả do nhà Lá Bối, Paris xuất bản năm 1977. Các truyện của Thầy ký bút hiệu Nhất Hạnh.
Một lá ngô đồng rơi - người vẫn cùng ta leo đồi thế kỷ. Ngàn hoa thủy tiên hé - đất cứ theo trời hát khúc vô sinh (chữ viết) Câu đối do Thầy Làng Mai tặng thầy Giác Thanh - đệ nhất trụ trì tu viện Lộc Uyển, được khắc trên tháp Phù Vân, núi Yên Tử, tu viện Lộc Uyển.
Mở Thêm Rộng Lớn Con Đường (bài hát) Một bài hát, lời của Thầy Làng Mai, viết tặng sư cô Chân Không nhân ngày sư cô xuất gia. Tịnh Thủy (sư cô Quy Nghiêm) phổ nhạc. 
Mái tóc vốn màu gỗ quý. 
Nay dâng thành khối trầm thơm.
 Nét đẹp đi về vĩnh cửu. 
Vi diệu thay ý vô thường. 
Đã thấy đời cơn huyễn mộng. 
Chân tâm một quyết lên đường. 
Nghe hải triều lên mấy độ. 
Nguyện phát túc về siêu phương. 
Gió reo trên triền núi Thứu. 
Lòng này thôi hết vấn vương.
Bài ca sáng ngời diệu lý. 
Bao la ngát đạo chân thường. 
Ngày xưa nước bồ kết gội. 
Chiều về buông xõa tóc hương. 
Sáng nay cam lồ tịnh thủy.
Tâm bồ đề lộ kiên cường. 
Bàn tay tập bài từ ái. 
Chia vui nếp sống tịnh thường. 
Mấy mươi năm trời cần mẫn. 
Thủy chung vẫn một niềm thương. 
Sáng nay cạo sạch mái tóc. 
Mở thêm rộng lớn con đường. 
Phiền não vô biên nguyện đoạn. 
Một tâm mà động mười phương.
Mùa Sen Mới (lễ lược) Tên một đại giới đàn diễn ra từ ngày 10 đến ngày 16 tháng 1 năm 2009 tại Làng Mai trong khóa An Cư Kiết Đông 2008 – 2009 và từ ngày 10 đến 12 tháng 1 năm 2009 tại chùa Từ Hiếu. Các lễ truyền giới Thức xoa ma na, Tỳ kheo và Tỳ kheo ni được truyền từ Làng Mai về Việt Nam qua mạng Internet.
Mười bốn bài kệ Chỉ Quán (thi kệ) Những bài thi kệ do Thầy Làng Mai sáng tác để giúp hành giả thực tập chỉ và quán.  
1. Như chim có hai cánh. Thiền tập có chỉ, quán. Hai cánh chim nương nhau. Chỉ và Quán song hành.  
2. Chỉ là tập dừng lại. Để nhận diện, tiếp xúc. Nuôi dưỡng và trị liệu. Lắng dịu và chú tâm
 3. Quán là tập nhìn sâu. Vào bản chất năm uẩn. Làm phát khởi tuệ giác. Chuyển hóa mọi sầu đau
 4. Hơi thở và bước chân. Chế tác nguồn chánh niệm. Để nhận diện, tiếp xúc. Với sự sống màu nhiệm.  
5. Làm lắng dịu thân, tâm. Nuôi dưỡng và trị liệu. Hộ trì được sáu căn. Và duy trì chánh định.  
6. Nhìn sâu vào thực tại. Thấy tự tính các pháp. Quán giúp ta buông bỏ. Mọi tìm cầu sợ hãi.  
7. An trú trong hiện tại. Chuyển hóa các tập khí. Làm phát sinh tuệ giác. Giải thoát mọi não phiền
 8. Vô thường là vô ngã. Vô ngã là duyên sinh. Là không, là giả danh. Là trung đạo, tương tức
 9. Không, vô tướng, vô tác. Giải tỏa mọi sầu đau. Trong nhật dụng công phu. Không kẹt vào lý giải
 10. Niết Bàn là vô đắc. Đốn, tiệm không phải hai. Chứng đạt sống thảnh thơi. Ngay trong giờ hiện tại
 11. Các thiền kinh căn bản. Như An Ban, Niệm Xứ. Chỉ đường đi nước bước. Chuyển hóa thân và tâm
 12. Các kinh luận đại thừa. Mở thêm nhiều cửa lớn. Giúp ta thấy chiều sâu. Của dòng thiền Nguyên Thỉ.  
13. Như Lai và Tổ Sư. Thiền chẳng nên cách biệt. Bốn đế phải nương nhau. Làm nền tảng truyền thừa
 14. Có Tăng thân yểm trợ. Thực tập dễ thành công. Chí nguyện lớn độ sinh. Lên đường mau thành tựu.
Mười bốn giới tiếp hiện (pháp số, giới điều) Những giới điều làm căn bản cho Dòng Tu Tiếp Hiện, một dòng tu do Thầy Làng Mai đề xướng và sáng lập tại chùa Pháp Vân Sài Gòn vào tháng 02 năm 1966. Mười bốn điều làm đường hướng, làm ý thức soi sáng cho từng giây từng phút của sự sống hàng ngày của những thành viên dòng tu Tiếp Hiện. Vì tôn chỉ của dòng Tiếp Hiện là hiện đại hóa đạo Bụt bằng cách nghiên cứu, thực nghiệm và áp dụng đạo Bụt một cách linh động và hữu hiệu vào đời sống mới của bản thân cũng như của xã hội, nên mười bốn giới Tiếp Hiện thể hiện rõ ràng tinh thần đó. Theo đạo Bụt, tâm là chủ, là họa sĩ vẽ ra tất cả các pháp, vì vậy giới Tiếp Hiện được bắt đầu bằng bảy giới về tâm ý. Hai giới tiếp theo dành cho lời nói (ngữ) và năm giới cuối cùng điều chỉnh thân. Giới Tiếp Hiện cũng phản ánh được bốn đặc tính quan trọng nhất của tư tưởng đạo Bụt Đại Thừa là tính phá chấp (vượt thoát ra ngoài mọi thành kiến, mọi cố chấp và giáo điều), tính khế cơ (có tính thực dụng và hữu hiệu, phù hợp với hoàn cảnh tâm lý và xã hội), tính thực chứng (tôn trọng thực nghiệm, không vướng vào các vấn đề siêu hình) và tính phương tiện (những pháp môn mới được sáng tạo ra để phù hợp với căn cơ mới, thời đại mới). Giới Tiếp hiện dành cho cả người xuất gia và tại gia. Bản chất và cách thức hành trì giới Tiếp Hiện gần với bản chất và cách hành trì của giới Bồ Tát.  
1. Giới thứ nhất: Cởi mở và bao dung: Ý thức được những khổ đau do thái độ cuồng tín và thiếu bao dung gây ra, con xin nguyện thực tập để đừng bị vướng mắc vào bất cứ một chủ nghĩa nào, một lý thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật giáo. Những giáo nghĩa Bụt dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là những chân lý để thờ phụng và bảo vệ, nhất là bảo vệ bằng những phương tiện bạo động. 2. Giới thứ hai: Cởi bỏ kiến chấp: Ý thức được những khổ đau do kiến chấp và vọng tưởng gây ra, con xin nguyện thực tập để phá bỏ thái độ hẹp hòi và cố chấp, để có thể cởi mở và đón nhận tuệ giác và kinh nghiệm của người khác. Con biết rằng những kiến thức hiện giờ con đang có không phải là những chân lý bất di bất dịch, và tuệ giác chân thực chỉ có thể đạt được do sự thực tập quán chiếu và lắng nghe, bằng sự buông bỏ tất cả mọi ý niệm mà không phải bằng sự chứa chấp kiến thức khái niệm. Con nguyện suốt đời là một người đi tìm học và thường trực sử dụng chánh niệm để quán chiếu sự sống trong con và xung quanh con trong từng giây phút. 
 3. Giới thứ ba: Tự do nhận thức: Ý thức được những khổ đau do sự cưỡng bức kẻ khác vâng theo ý kiến của mình, con nguyện không p buộc người khác, kể cả trẻ em, theo quan điểm của con, bằng bất cứ cách nào: uy quyền, sự mua chuộc, sự dọa nạt, sự tuyên truyền và giáo dục nhồi sọ. Con nguyện tôn trọng sự khác biệt của kẻ khác và sự tự do nhận thức của họ. Tuy nhiên con biết con phải dùng những phương tiện đối thoại từ bi và ái ngữ để giúp người khác cởi bỏ cuồng tín và cố chấp.  
4. Giới thứ tư: Ý thức về khổ đau: Ý thức rằng tiếp xúc và quán chiếu về bản chất của khổ đau có thể giúp con phát khởi tâm từ bi và thấy được con đường thoát khổ, con nguyện không trốn tránh thực tại khổ đau, nhắm mắt trước khổ đau và đánh mất ý thức về khổ đau của cuộc sống. Con nguyện tìm tới với những kẻ khổ đau để hiểu biết được tình trạng của họ và để giúp đỡ họ. Bằng những phương tiện tiếp xúc, tường thuật, hình nh, âm thanh, con nguyện thường xuyên tự đánh thức mình và đánh thức những người xung quanh về sự có mặt của những đau khổ hiện thực khắp nơi trên thế giới. Con biết rằng sự thật thứ là Đạo đế chỉ hiển lộ khi nào con quán chiếu và thấy được tự tánh của sự thật thứ nhất là Khổ đế, và con sẽ luôn luôn nhớ rằng mục đích của sự tu tập là chuyển hóa khổ đau trở thành an lạc. 
 5. Giới thứ năm: Sống lành mạnh và giản dị: Ý thức rằng hạnh phúc chân thực không thể đạt tới được bằng tiền tài và danh vọng mà chỉ thật sự có mặt khi nào các yếu tố an ổn, vững chãi, thảnh thơi và từ bi có mặt, con nguyện không tích lũy tiền bạc và của cải trong khi nhiều người đang đói khổ, thiếu thốn, không đặt danh vọng, quyền hành và sự hưởng thụ dục lạc làm mục tiêu của đời mình. Con nguyện tập sống giản dị và học chia sẻ thì giờ, khả năng và tài vật của mình với những kẻ thiếu thốn.  
6. Giới thứ sáu: Đối xử với năng lượng sân hận: Ý thức được rằng sân hận và oán thù có tác dụng cắt đứt truyền thông giữa người với người và tạo ra nhiều đau khổ cho cả hai phía, con nguyện học hỏi phương pháp chăm sóc và đối xử với năng lượng sân hận và oán thù khi chúng phát khởi trên ý thức con và phương pháp quán chiếu để nhận diện và chuyển hóa hạt giống của sân hận và oán thù trong chiều sâu tâm thức con. Con nguyện tập luyện để mỗi khi cơn giận hoặc sự bực tức phát khởi, con sẽ không nói gì và làm gì cả mà chỉ thực tập hơi thở chánh niệm hoặc đi thiền hành ngoài trời để chăm sóc tâm niệm sân hận và oán thù của con bằng năng lượng chánh niệm và để nhìn sâu vào bản chất của các tâm niệm sân hận và oán thù ấy. Con cũng nguyện sẽ học hỏi nhìn sâu vào tự tánh của người mà con nghĩ đã gây nên tâm niệm sân hận và oán thù của con và để có thể nhìn được người ấy bằng con mắt từ bi.  
7. Giới thứ bảy: An trú trong giây phút hiện tại: Ý thức được rằng sự sống chỉ có thể thực sự có mặt trong giây phút hiện tại, và ta chỉ có thể sống an lạc ngay trong giây phút ấy, con nguyện tập luyện để có thể sống sâu sắc từng giây phút trong cuộc sống hàng ngày của con. Con nguyện không để cho những hối tiếc về quá khứ, những lo lắng về tương lai và những tham dục, giận hờn và ganh tỵ đối với những gì đang xảy ra trong hiện tại lôi kéo con và làm cho con đánh mất sự sống mầu nhiệm. Con nguyện thực tập giáo lý hiện pháp lạc trú, sử dụng hơi thở và nụ cười chánh niệm để tiếp xúc với những gì mầu nhiệm, tươi mát và lành mạnh trong con và chung quanh con, để liên tục gieo trồng và tưới tẩm những hạt giống an lành, hiểu biết và thương yêu trong con, làm động lực chuyển hóa chiều sâu tâm thức và đi tới trên đường thành tựu đạo nghiệp. 
 8. Giới thứ tám: Truyền thông và hòa giải: Ý thức được rằng những khó khăn trong việc truyền thông giữa người với người luôn luôn đưa tới ngăn cách và khổ đau, con nguyện thực tập lắng nghe bằng tâm từ bi và nói năng bằng lời i ngữ. Con nguyện học hạnh lắng nghe chăm chú mà không phán xét và chỉ trích và không nói ra bất cứ một lời nào có thể tạo nên sự bất hòa trong đoàn thể và có thể làm tan vỡ đoàn thể. Con nguyện tu tập để tái lập lại sự truyền thông giữa con và mọi người khác, và để giúp giải quyết mọi vụ bất hòa, dù lớn dù nhỏ. 
 9. Giới thứ chín: Lời nói chân thật và ái ngữ: Ý thức được rằng lời nói có thể tạo ra khổ đau hay hạnh phúc, con xin nguyện luyện tập để chỉ nói những lời nói chân thật có tác dụng hòa giải, gây niềm tin tưởng và hy vọng. Con nguyện không nói dối để mưu cầu tài lợi và sự kính phục, không nói những lời gây chia rẽ và căm thù, không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và lên n những gì con không biết rõ. Con nguyện can đảm nói ra sự thật về những tình trạng bất công, dù hành động này có thể mang lại những đe dọa cho sự an thân của mình.  
10. Giới thứ mười: Phòng hộ giáo đoàn: Ý thức rằng mục đích và bản chất của một đoàn thể tu học là sự thực hiện tuệ giác và từ bi, con nguyện không bao giờ lợi dụng đạo Bụt và các đoàn thể giáo hội vào mục tiêu quyền bính, không biến các giáo đoàn thành những tổ chức hoạt động chính trị. Tuy nhiên, con nhận thức rằng các đoàn thể tu học phải có ý thức và thái độ rõ rệt về những tình trạng p bức và bất công xã hội và có thể sử dụng nh hưởng của mình để chuyển đổi các tình trạng ấy mà không cần và không nên dấn thân vào những cuộc tranh chấp phe phái.  
11. Giới thứ mười một: Chánh mạng: Ý thức rằng thiên nhiên và xã hội con người đã bị tàn phá trầm trọng vì bạo động và bất công, con nguyện thực tập chánh mạng, quyết tâm không sinh sống bằng những nghề nghiệp có thể gây tàn hại cho con người và thiên nhiên, không đầu tư vào những doanh nghiệp chuyên làm lợi cho một nhóm người trong khi tước đoạt môi trường và hội sinh sống của những nhóm người khác. Con nguyện chọn một nghề có thể giúp con thực hiện được lý tưởng từ bi và cứu khổ của đạo Bụt.  
12. Giới thứ mười hai: Tôn trọng và bảo vệ sự sống: Ý thức được những khổ đau do chiến tranh và các cuộc xung đột tạo ra, con nguyện thực tập sống đời sống hàng ngày của con theo tinh thần bất hại, hiểu biết và thương yêu. Con nguyện góp phần vào công việc giáo dục hòa bình và thực tập hòa giải trong phạm vi gia đình, cộng đồng, quốc gia và quốc tế. Con nguyện không giết hại sinh mạng, không tán thành sự chém giết, và thường xuyên quán chiếu với tăng thân con để tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ sinh mạng, ngăn chặn chiến tranh và xây dựng hòa bình. 
 13. Giới thứ mười ba: Chí nguyện lợi tha: Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con xin học theo hạnh đại từ để đem niềm vui sống và an lạc cho mọi người và mọi loài, để chia xẻ thì giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ đang thật sự thiếu thốn. Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do mình tạo ra. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và làm giàu một cách bất lương trên sự đau khổ của con người và của muôn loài.  
14. Giới thứ mười bốn: Bảo tồn năng lượng Tinh-Khí-Thần. Dành cho Tiếp Hiện tại gia: Ý thức được rằng sự tìm tới và phối hợp giữa hai cơ thể do sự thúc đẩy của dục tình không những đã không thể giải tỏa được nỗi cô đơn của con người mà còn tạo thêm nhiều khổ đau, chua cay và xa cách, con nguyện không ăn nằm với những người không phải là vợ hay chồng của con. Con ý thức được rằng hành động tà dâm sẽ gây ra khổ đau cho kẻ khác và cho chính con trong hiện tại và trong tương lai. Con biết muốn bảo vệ hạnh phúc của mình và của kẻ khác thì phải biết tôn trọng những điều mà mình và kẻ khác đã cam kết. Con nguyện sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa. Con ý thức được trọn vẹn trách nhiệm của con về sự cho ra đời những sinh mạng mới và thường xuyên quán chiếu về môi trường sinh hoạt trong tương lai của những sinh mạng này. Dành cho Tiếp Hiện xuất gia: Ý thức được rằng lý tưởng xuất gia chỉ có thể thực hiện được với sự cắt bỏ hoàn toàn những ràng buộc đối với i dục, con nguyện giữ mình thật tinh khiết, tự bảo vệ nếp sống phạm hạnh của con và hết lòng bảo vệ tiết hạnh của kẻ khác. Con biết cô đơn và khổ đau không thể nào được giải tỏa bằng dục tình mà chỉ có thể được chuyển hóa bằng sự thực tập hiểu biết và thương yêu đích thực. Con biết hành động dâm dục sẽ làm tan vỡ cuộc đời xuất gia của con, làm hại đến cuộc đời của kẻ khác và không cho con thực hiện được lý tưởng cứu độ chúng sanh của mình. Con nguyện không p uổng thân thể con, không đối xử với thân thể con một cách bạo động và khinh xuất, không xem thân thể chỉ như là một dụng cụ. Con nguyện bảo trọng thân thể con, xem thân thể mình là đền thờ của tâm linh, là chiếc thuyền vượt biển, và thường xuyên học hỏi bảo tồn tinh, khí và thần để có đủ năng lực hành đạo.
Mười động tác chánh niệm (thuật ngữ) Mười động tác thể thao thường được sử dụng ở Làng Mai để giúp làm thư giãn gân cốt sau những buổi sinh hoạt ngồi, hoặc giữa những buổi thiền đi. Những động tác này giúp cho tất cả các bộ phận của cơ thể được dịp vận động, mỗi động tác làm ba lần và làm trong chánh niệm, thường được thực tập chung toàn chúng. Trong mười động tác chánh niệm, ta thực tập phối hợp hơi thở vào hoặc hơi thở ra với từng động tác của thân thể. Trước tiên ta hãy đứng cho thoải mái, hai tay buông xuôi và để hết tâm ý ta vào hơi thở đang đi vào, đi ra ở nơi chóp mũi. Ta cũng có thể đặt tay ta trên bụng để ý thức về hơi thở vào, hơi thở ra đang làm cho bụng ta phồng lên và xẹp xuống. Ta thở một hồi, cho đến khi ta thấy tâm mình đã hoàn toàn trở về được với thân thì mới bắt đầu bằng động tác thứ nhất. Nên nhớ hơi thở của ta phải tự nhiên và động tác của ta cần chậm rãi, khoan thai. Sau mỗi động tác, ta có thể đứng yên, quay trở về với hơi thở trước khi thực tập động tác kế tiếp. Trong khi tập, ta nhớ giữ một nụ cười hàm tiếu trên môi. Sau khi tập xong mười động tác chánh niệm, ta lại đứng yên, theo dõi hơi thở vài lần trước khi xá chào, chấm dứt. (xem hình minh họa ở phần cuối mục M)
Mười giới sa di (pháp số, giới điều) Mười giới dành cho các vị xuất gia nam và nữ trong những năm đầu của cuộc sống xuất gia và là nền tảng của giới lớn Ba La Đề Mộc Xoa sau này. Có trong sách Bước Tới Thảnh Thơi, là kim chỉ nam thực tập cho các vị sa di và sa di ni. Hành tướng mười giới được trình bày rất cụ thể, rõ ràng và rất hiện đại. Mười giới sa di đúng là tiêu chuẩn của đời sống một người xuất gia, dù vị xuất gia này đã thọ giới lớn. Chỉ cần đọc mười giới này cũng đủ thấy đời sống và lý tưởng của người xuất gia là cao viễn, thảnh thơi và đẹp đẽ. Sống đúng theo mười giới này, vị sa di chứng tỏ mình đã ly khai con đường trần lụy của thế gian và đang bước trên con đường thương yêu của các vị Bụt và Bồ Tát. Bảo tồn nguyên vẹn tinh thần của các giới luật Nguyên thỉ, Hội đồng Giáo thọ của đạo tràng Mai Thôn đã biên soạn lại để mười giới sa di phản ánh được bản chất chánh niệm của giới, đồng thời cũng thỏa mãn được nhu yếu về lý tưởng thương yêu và hiểu biết của những người xuất gia trong thời đại mới.  
  1. Giới thứ nhất là bảo vệ sinh mạng: Ý thức được những khổ đau do sự sát hại gây ra, con xin học theo hạnh đại bi để bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài. Con nguyện không giết hại sinh mạng, không tán thành sự giết chóc và không để kẻ khác giết hại, dù là trong tâm tưởng hay trong cách sống hàng ngày của con. 
  2. Giới thứ hai là tôn trọng quyền tư hữu: Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con xin học theo hạnh đại từ để đem niềm vui sống và an lạc cho mọi người và mọi loài, để chia sẻ thì giờ và năng lực của con với những kẻ thiếu thốn. Con nguyện không lấy làm của riêng bất cứ một tài vật nào của thường trú hoặc của bất cứ ai. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, và cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và làm giàu một cách bất lương trên sự đau khổ của con người và của muôn loại. 
  3.  Giới thứ ba là bảo vệ tiết hạnh: Ý thức được rằng lý tưởng của người xuất gia chỉ có thể thực hiện được với sự cắt bỏ hoàn toàn những ràng buộc đối với i dục, con nguyện giữ mình thật tinh khiết, tự bảo vệ nếp sống phạm hạnh của con và hết lòng bảo vệ tiết hạnh của kẻ khác. Con biết hành động dâm dục sẽ làm tan vỡ cuộc đời xuất gia của con, làm hại đến cuộc đời của kẻ khác, và không cho con thực hiện được lý tưởng cứu độ chúng sanh của mình
  4.  Giới thứ là thực tập chánh ngữ và lắng nghe: Ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu chánh niệm gây ra, con xin học theo các hạnh chánh ngữ và lắng nghe để có thể dâng tặng niềm vui cho người và làm vơi bớt khổ đau của người. Biết rằng lời nói có thể đem lại hạnh phúc hoặc khổ đau cho người, con nguyện chỉ nói những lời có thể gây thêm niềm tự tin, an vui và hy vọng, những lời chân thật có giá trị xây dựng hiểu biết và hòa giải. Con nguyện không nói những điều sai với sự thật, những lời gây chia rẽ và căm thù. Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và lên n những điều con không biết rõ. Con nguyện thực tập lắng nghe với tâm từ bi, để có thể hiểu được những khổ đau và khó khăn của kẻ khác và để làm vơi đi những khổ đau của họ. Con nguyện không nói những điều có thể tạo nên sự bất hòa trong đoàn thể tu học của con, những điều có thể gây nên chia rẽ và làm tan vỡ đoàn thể tu học của con. Con nguyện không nói những lỗi lầm của bất cứ một vị xuất gia nào ngoài tăng thân con và bất cứ về một đạo tràng nào, dù có khi con nghĩ là những lỗi lầm này có thật, trừ khi con được yêu cầu làm việc này trong những buổi thực tập soi sáng có mặt đương sự.  
  5. Giới thứ năm là bảo vệ và nuôi dưỡng thân tâm, không sử dụng rượu, các chất ma túy và tiêu thụ những sản phẩm có độc tố: Ý thức được những khổ đau do sự sử dụng rượu, các chất ma túy và các độc tố gây ra, con nguyện chỉ tiêu thụ những thức ăn thức uống không có độc tố và không có tác dụng gây nên sự say sưa, tình trạng mất tự chủ của thân tâm và tình trạng nặng nề và ốm đau của thân thể cũng như của tâm hồn. Con nguyện thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu thụ. Con nguyện chỉ tiêu thụ những gì có thể đem lại an lạc cho thân tâm con. Con nguyện không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống và tiêu thụ những sản phẩm có độc tố trong đó có cả những sản phẩm sách báo và phim nh có chứa đựng bạo động, sợ hãi, thèm khát và hận thù.  
  6. Giới thứ sáu là không sử dụng mỹ phẩm và đồ trang sức: Ý thức được cái đẹp đích thực của người xuất gia là tính chất vững chãi và thảnh thơi, con nguyện mỗi ngày làm đẹp cho con và cho tăng thân con bằng sự thực tập chánh niệm, cụ thể qua sự hành trì giới luật và các uy nghi trong đời sống hàng ngày. Con biết các loại mỹ phẩm và trang sức mà người đời sử dụng chỉ có thể đem lại sự hào nhoáng giả tạo bên ngoài, và chỉ có tác dụng gây ra sự chìm đắm và vướng mắc, cho nên con nguyện sống giản dị, gọn gàng và sạch sẽ trong cách ăn mặc của con. Con nguyện không sử dụng các loại nước hoa, phấn, sáp, các loại mỹ phẩm và các thức trang sức khác.  
  7. Giới thứ bảy là không vướng mắc vào các lối tiêu khiển trần tục: Ý thức được những ca khúc, phim truyện, sách báo và các trò giải trí của thế gian có thể có tác dụng độc hại cho thân tâm người xuất gia và làm mất thì giờ cho công phu tu học của mình, con nguyện không để bị chìm đắm theo những sản phẩm ấy. Con nguyện không đọc tiểu thuyết, xem phim nh và sách báo trần tục, không tìm sự tiêu khiển bằng cách ca hát và thưởng thức những bài hát tình sầu, kích động và đứt ruột, và không đánh mất thì giờ tu học của con bằng những trò chơi điện tử và bài bạc.  
  8. Giới thứ tám là không sống đời sống vật chất sang trọng và xa hoa: Ý thức được rằng sống trong những điều kiện vật chất sang trọng và xa hoa, người xuất gia sẽ khởi tâm i dục và tự hào, con nguyện suốt đời chỉ sống một nếp sống giản dị, thiểu dục và tri túc. Con nguyện không ngồi và không nằm trên những chiếc ghế và chiếc giường lộng lẫy, không sử dụng lụa là, gấm vóc, xe cộ bóng loáng và nhà cửa cao sang. 
  9. Giới thứ chín là không ăn mặn và không ăn ngoài những bữa ăn của đại chúng: Ý thức được nhu yếu giữ gìn sức khỏe, sống hòa hợp với tăng thân và nuôi dưỡng lòng từ bi, con nguyện suốt đời ăn chay và không ăn ngoài những bữa ăn của đại chúng, trừ trường hợp có bệnh.  
  10. Giới thứ mười là không tích lũy tiền bạc và của cải: Ý thức được rằng hạnh phúc của người xuất gia được làm bằng các chất liệu vững chãi và thảnh thơi, con nguyện không để cho tiền bạc và của cải làm vướng bận đường tu của con. Con nguyện không tích lũy tiền bạc và của cải, không đi tìm hạnh phúc trong sự chất chứa tiền bạc và của cải, không nghĩ rằng tiền bạc, châu báu và của cải có thể bảo đảm cho sự an ninh của con.
Mười hai nhân duyên (pháp số) Mười hai nhân duyên được Sư Ông Làng Mai nhìn từ khía cạnh tích cực. Thuyết Duyên sinh mà cả Bắc Tông và Nam Tông đều nói tới một cách kỹ lưỡng gồm 12 nhân duyên, từ Vô Minh cho tới Lão Tử. Tuy nhiên, dưới ánh sáng của tuệ giác tương tức – trong hoa có rác, trong rác có hoa – tất cả những Vô Minh, Hành, Thức, Danh Sắc… phải được chấp nhận và chuyển hoá thành 12 nhân duyên theo hướng tích cực:  
1. Minh. Vì Bụt dạy “Vô minh diệt, Minh sinh”.  
2. Đại Nguyện hay Bồ Đề Tâm. Vô Minh duyên Hành, nhưng khi hết vô minh, được Minh chiếu sáng thì ta thấy được khổ đau và nguồn gốc của khổ đau, thấy được con đường dẫn tới sự chuyển hoá khổ đau, dẫn tới an lạc. Tự nhiên cái Minh ấy tạo ra một ước muốn, một ý chí hành động do tâm từ bi thúc đẩy, để mang lại hạnh phúc và an lạc cho mình và người khác, gọi là Đại Nguyện hay Bồ Đề Tâm.  
3. Trí. Vô Minh và Hành tạo ra Thức. Chính vì chứa tính sai lầm, chứa mầm mống khổ đau, chứa vô minh nên gọi là Thức, nếu có Minh thì ta gọi là Trí. Trí ở đây gồm Đại Viên Cảnh Trí – là thức thứ tám hay Tàng thức khi xoá được vô minh; Bình Đẳng Tánh Trí – là thức thứ bảy hay Mạt Na Thức sau khi được chuyển hoá; Diệu Quan Sát Trí – là thức thứ sáu hay Ý thức chuyển hoá thành; Thành Sở Tác Trí – là trí tuệ do sự chuyển hoá các Thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. 
 4. Thân Thị Hiện. Nếu Thức duyên Danh Sắc thì Trí duyên Thân Thị Hiện. Bụt và các vị Bồ Tát cũng cần có danh sắc, nghĩa là thân và tâm để làm công việc độ đời. Khi bất cứ một Danh Sắc nào có tác dụng tạo tác được từ bi, hiểu biết, hạnh phúc đều là Thân Thị Hiện của Bụt và các vị Bồ Tát. 
 5. Thân Thọ Dụng. Bất cứ một cái thân, một tập hợp nào của ngũ uẩn, có Danh Sắc nhưng không còn chất liệu của Vô Minh, mà lại có chất liệu của Minh, của Bồ Đề Tâm, của tứ Trí, thì đều là Thân Thọ Dụng, là phương tiện để hành đạo. 
 6. Xúc Thanh Tịnh. Xúc được phát hiện trong chánh niệm và tuệ giác nên nó là Xúc Thanh Tịnh.  
7. Thọ Thanh Tịnh. Có Xúc thì cũng có Thọ nhưng là Thọ Thanh Tịnh vì không vướng mắc.  
8. Từ, Bi và Hỷ. Vì Thọ thanh tịnh, có chánh niệm và không vướng mắc nên không tạo nên Ái mà tạo nên ba trong bốn Vô Lượng Tâm. Khi tiếp xúc, thấy người khổ đau ta phát sinh trong tâm năng lượng của Từ - muốn giúp họ có niềm vui chân thật, năng lượng của Bi - muốn làm cho họ tiêu tan nỗi khổ và tâm Hỷ - muốn làm cho họ có niềm vui, có hạnh phúc.  
9. Vô Nguyện. Chính là Xả. Xả nghĩa là tâm không vướng mắc, không phải là sự dửng dưng mà là khả năng giữ tâm được tự do, không bị cuốn theo bên này hay bên khác. Xả là khả năng thấy được tính tương tức, cài này là cái kia. Xả là bất nhị. Có xả thì ta coi kẻ ghét người thương như nhau, không chạy trốn Vô Minh để đi tìm Minh. 
 10. Diệu Hữu Chân Không. Trong tinh thần của Vô Nguyện, tự do, không chạy chọt tìm cầu, cõi khổ đau sẽ trở thành Tịnh Độ. Ta thoát được Hữu vì ta đã biến Hữu của Hữu Vô, của thương ghét thành Diệu Hữu.  
11. Vô Sinh. Cái nhìn của Bụt và các vị Bồ tát là Lão tử thì lão tử nhưng không có khổ đau, nếu quả thực đã có chất liệu của giác ngộ thì sinh cũng vậy mà tử cũng vậy, đều là thị hiện. Đứng về phương diện hiện tượng thì giống như là có Sinh, có Diệt, có Có, có Không, đứng về phương diện bản thể thì không có Sinh - Diệt, không có Có – Không, tất cả đều là thị hiện.  
12. Hiện Pháp Niết Bàn. Niết bàn trong hiện tại.
Mỹ Nghiêm (tên gọi) Một vị xuất gia nữ của Làng Mai. Người Việt Nam, quốc tịch Việt Nam, sinh năm 1985 tập sự xuất gia năm 2004 (19 tuổi), thọ giới Sa Di Ni ngày 1 tháng 2 năm 2005 (20 tuổi) tại chùa Hoằng Pháp, Việt Nam, pháp danh Tâm Nguyên An, pháp tự Chân Mỹ Nghiêm. Sư cô thuộc gia đình xuất gia Cây Vú Sữa. Là đệ tử thứ 228 của Sư Ông Làng Mai. Sư cô Mỹ Nghiêm thuộc thế hệ thứ 43 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ 9 của phái Liễu Quán.

Không có nhận xét nào: